Các chấm, nốt hoặc mảng bầm máu tụ dưới da, chảy máu chân răng, niêm mạc… có thể dấu hiệu của bệnh xuất huyết giảm tiểu cầu ở trẻ.
Xuất huyết giảm tiểu cầu là một trong những bệnh lý thường gặp ở trẻ em. Khi trẻ xuất hiện các chấm, nốt hoặc mảng bầm máu tụ dưới da, chảy máu chân răng, niêm mạc… thì cha mẹ cần đưa trẻ đến các bệnh viện chuyên khoa để kiểm tra. Vì đó có thể dấu hiệu của bệnh xuất huyết giảm tiểu cầu nhiều cha mẹ chưa biết đến.
Trẻ em mắc bệnh có thể xuất huyết bất kỳ lúc nào
Bệnh xuất huyết giảm tiểu cầu có thể xảy ra ở mọi lứa tuổi, nhưng thường gặp nhất là ở trẻ em và những người trẻ tuổi.
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến bệnh xuất huyết do giảm tiểu cầu, nhưng phổ biến nhất là do tăng phá hủy tiểu cầu ở máu ngoại vi và giảm sinh tiểu cầu ở tủy xương. Nếu xuất huyết giảm tiểu cầu do tăng phá hủy tiểu cầu ở máu ngoại vi, bệnh nhân sẽ mắc các bệnh như: các u máu lớn, nhiễm khuẩn huyết, nhiễm virut nặng gây giảm tiểu cầu, tan máu tự miễn kèm theo giảm tiểu cầu, bệnh luput ban đỏ…
Nếu xuất huyết giảm tiểu cầu do giảm sinh tiểu cầu ở tủy xương, bé dễ bị suy tủy toàn bộ, suy một dòng mẫu tiểu cầu hay các bệnh ác tính ở tủy xương như ung thư di căn tủy… Xuất huyết giảm tiểu cầu khá phổ biến ở trẻ em, chủ yếu là do giảm số lượng tiểu cầu ở máu ngoại vi.
Bệnh thường có khởi phát từ từ kín đáo với sự xuất hiện của các nốt xuất huyết chấm đỏ hoặc bầm tím, hay xuất huyết do xây xước nhẹ trên da, không kèm theo sốt, thiếu máu, sưng hạch hoặc các biểu hiện toàn thân khác. Khi số lượng tiểu cầu giảm nặng, cần có các biện pháp đề phòng chảy máu, đặc biệt là chảy máu ở phổi, não dễ gây tử vong cho người bệnh.
Đặc biệt, xuất huyết giảm tiểu cầu ở trẻ em thường có diễn biến cấp tính. Vì vậy, khi thấy trẻ có những dấu hiệu kể trên, nên sớm đưa trẻ đi khám chuyên khoa huyết học để có hướng xử trí thích hợp.
Các chấm, nốt hoặc mảng bầm máu tụ dưới da, chảy máu chân răng, niêm mạc… có thể dấu hiệu của bệnh xuất huyết giảm tiểu cầu ở trẻ.
Dấu hiệu nhận biết bệnh giảm tiểu cầu
Dấu hiệu chung nhất của bệnh là hội chứng chảy máu, đặc biệt là ở da và niêm mạc. Nếu bị chảy máu dưới da, có thể xuất hiện các chấm, nốt hoặc mảng bầm máu tụ dưới da. Người bệnh cũng có các dấu hiệu chảy máu mũi, lợi chân răng, tai…
Nặng hơn, người bệnh có thể bị xuất huyết nội tạng, xuất huyết não – màng não, xuất huyết phổi, xuất huyết tiêu hóa, tiết niệu, sinh dục (đa kinh, rong kinh). Khi bị xuất huyết, người bệnh cũng sẽ bị thiếu máu tương xứng với mức độ chảy máu.
Khi số lượng tiểu cầu bị giảm thì quá trình đông máu không được thực hiện và gây nên tình trạng xuất huyết.
Tiểu cầu người bình thường là 150 – 500G/l, nếu khi thấy triệu chứng trên, bé đi tổng phân tích tế bào máu (xét nghiệm máu tại các bệnh viện) mà tiểu cầu đạt 100G/l thì nghĩ tới việc giảm tiểu cầu. Tuy nhiên, do các bố mẹ thường không biết về bệnh nên khi trẻ nhập viện thường tiểu cầu rất thấp, có trẻ đạt tiểu cầu ở mức 5G/l và phải cấp cứu, truyền tiểu cầu gấp.
Trong thời gian mắc bệnh, bé cần hạn chế vận động, tránh va chạm, giữ vệ sinh răng miệng, đảm bảo chế độ dinh dưỡng, tránh ăn những thức ăn gây xước niêm mạc miệng, lưỡi… theo dõi tình trạng xuất huyết, mức độ mất máu để có phương án điều trị kịp thời.